Chủ Nhật, 17 tháng 3, 2013

ĐSCT)  Trong lịch sử dân tộc, ngoài những chiến công hiển hách chống giặc ngoại xâm phương Bắc, còn ghi nhận những chiến thắng về ngoại giao vừa mềm dẻo, khôn khéo vừa kiên định để tránh cho đất nước khỏi họa xâm lăng. Lịch sử còn ghi lại những câu chuyện về các vị quan làm công tác ngoại giao, các sứ thần của nước Việt rất đỗi thông minh, có tài ứng đối như Mạc Đĩnh Chi, Nguyễn Hiền, Thân Nhân Trung... Trong đó, nổi bật là thám hoa Giang Văn Minh, vị sứ thần đời nhà Hậu Lê. Khi được cử đi sứ sang Trung Hoa đời nhà Minh, ông thà hy sinh tính mạng chứ không chịu nhục để bảo vệ nền độc lập của dân tộc và dạy cho kẻ thù bài học, nếu còn âm mưu xâm lược bá quyền thì trước sau cũng chuốc lấy thất bại.


Tác giả cùng hậu duệ đời thứ 13, ông Giang Văn Kế bên ngôi mộ danh nhân văn hóa Giang Văn Minh 
Giang Văn Minh tự Quốc Hoa, thụy Văn Chung, là người làng Kẻ Mía, xã Mông Phụ, tổng Cam Giá, huyện Phúc Thọ, tỉnh Sơn Tây, nay thuộc xã Đường Lâm, thị xã Sơn Tây, TP. Hà Nội, mảnh đất địa linh nhân kiệt đã sản sinh ra hai đời vua đó là Phùng Hưng - Bố Cái Đại Vương và Ngô Quyền. Giang Văn Minh sinh ngày mồng 6 tháng 9 năm Quý Dậu (1573), niên hiệu Gia Thái năm thứ nhất đời vua Lê Thế Tông. Năm 1628 đời vua Lê Thần Tông, ông đi thi và là người đỗ cao nhất với chức đệ nhất giáp tiến sĩ cập đệ đệ tam danh - hiện còn lưu giữ tại bia số 32 (văn bia đề danh tiến sĩ khoa Mậu Thìn, niên hiệu Vĩnh Tộ 10) tại Văn Miếu Quốc Tử Giám, Hà Nội. Năm 1631, ông được vua Lê Thần Tông phong tước, chức Thái bộc tự khanh, phúc lộc bá. Sau đó, ông cùng với con của chúa Trịnh là Trịnh Tộ được cử đi trấn giữ Nghệ An.
Mùa đông năm Dương Hòa 3 (1637) đời vua Lê Thần Tông, Giang Văn Minh cùng Thiên đô ngự sử Nguyễn Duy Hiểu được vua cử làm chánh sứ cùng với bốn phó sứ là Nguyễn Quang Minh, Trần Nghi, Nguyễn Bình và Thân Khuê dẫn đầu hai đoàn sứ bộ sang cầu phong và tuế cống nhà Minh. Trong lịch sử, Lê Lợi tức vua Lê Thái Tổ đánh bại quân Minh xâm lược và chém rơi đầu Liễu Thăng. Sau đó, nhà Minh bắt nước Việt hàng năm phải cống nộp tượng người bằng vàng nặng bằng đúng trọng lượng Liễu Thăng, nếu không sẽ quấy quả. Dân gian vẫn truyền tụng chuyện này bằng câu “nợ Liễu Thăng”.
Khi Giang Văn Minh đi sứ, nhà Mạc đã bỏ chạy về Cao Bằng, nhưng giặc Minh vẫn áp dụng chính sách ngoại giao hai mặt với cả nhà hậu Lê và nhà Mạc, hòng kéo dài cuộc nội chiến Lê - Mạc khiến nước Nam bị suy yếu, càng yếu chúng càng dễ thủ lợi. Sứ bộ của ta đã sang đến Yên Kinh (nay là Bắc Kinh) gần cả năm trời, vua Minh vẫn không tiếp kiến. Giai thoại kể rằng, để sớm được vào chầu kiến, Giang Văn Minh bèn cho người phơi cả bồ sách và nằm phơi bụng trước cửa điện của vua Minh. Quân lính thấy lạ liền hỏi thì Giang Văn Minh trả lời vì lâu không được vào tiếp kiến vua Minh cho nên bồ sách mang theo và chữ nghĩa trong bụng bị ẩm ướt, sợ hỏng nên phải phơi. Quân lính tâu lên. Vua Minh lúc ấy là Sùng Trinh cho gọi vào và ra cho sứ bộ một vế đối, đối được mới cho vào chầu. Vế đối ra như sau:
Đồng trụ chí kim đài dĩ lục (Cột đồng đến nay rêu đã xanh). Câu này có ý nhắc tới việc Mã Viện từng đàn áp cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng, sau đó cho chôn một chiếc cột đồng với lời nguyền: “Đồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt” (Cột đồng gãy thì Giao Chỉ - tức  Đại Việt - bị diệt vong”.
Trước vế đối ngạo mạn này, Giang Văn Minh ung dung đối lại:
Đằng Giang tự cổ huyết do hồng (Sông Đằng từ xưa máu còn đỏ). Vế đối này vừa  chỉnh vừa có ý nhắc lại người Việt đã ba lần đánh tan quân xâm lược phương bắc trên sông Bạch Đằng.
Vế đối khẳng khái đó như một cái tát thẳng vào mặt vua Minh trước đông đảo văn võ bá quan của thiên triều và sứ bộ các nước. Vua Minh bừng bừng lửa giận, quên mất thể diện, bất chấp luật lệ bang giao, tức giận sai quân đổ chì nóng vào mắt, miệng Giang Văn Minh và mổ bụng ông xem “to gan lớn mật đến đâu”. Sự việc đó xảy ra ngày mồng 2 tháng 6 năm Kỷ Mão (1639). Tuy trả thù hèn hạ và tàn độc như vậy nhưng vua Minh không thể không nể phục khí phách Giang Văn Minh nên đã hạ lệnh cho ướp xác ông bằng bột thủy ngân rồi trả về Đại Việt.
Khi thi hài Giang Văn Minh về đến Thăng Long, đích thân vua Lê, chúa Trịnh bái kiến linh cữu ông và truy tặng chức Công bộ Tả thị lang, tước Vinh quận công và ban tặng câu “Sứ bất nhục quân mệnh khả vi thiên cổ anh hùng” (Sứ thần không làm nhục mệnh vua giao, thật xứng đáng là bậc anh hùng muôn thuởã).
Trong tang lễ, điếu văn của nhà vua có câu:
 “Thục bất hữu sinh, sinh như công dã, sinh ư khoa giáp, kỳ sinh dã vinh”. (Ai mà chẳng sống, sống như ông vậy, sống đỗ đạt khoa giáp thật là đáng sống).
 “Thục bất hữu tử, tử như công dã, tử ư quốc sự, kỳ tử do sinh”. (Ai mà chẳng chết, chết như ông vậy, chết vì việc nước, thì cái chết như sống mãi).
Sau cái chết của Giang Văn Minh, nhà Minh bãi bỏ lệ triều cống người bằng vàng, dân gian vẫn truyền tụng là đã trả được “nợ Liễu Thăng”.
Giang Văn Minh sinh được  hai con trai và bảy con gái. Hai người con trai của ông, con trưởng Giang Văn Trạch và con thứ là Giang Văn Tôn sau này đều làm quan to trong triều.
Hiện phần mộ sứ thần Giang Văn Minh được chôn cất tại cánh đồng Dưa thuộc xứ Gò Đông, hướng tây bắc, nhìn về thôn Mông Phụ, xã Đường Lâm. Trên cánh đồng này có một quán nhỏ là nơi linh cữu ông được quàn và gọi là quán Giang. Ở Hà Nội hiện nay có một con đường  mang tên Giang Văn Minh, nối phố Giảng Võ và Kim Mã, quận Ba Đình.
Để tưởng nhớ công lao và sự nghiệp của Giang Văn Minh, một ngôi đền thờ ông được hậu thế xây dựng ngay tại quê ông, làng Mông Phụ và đã được Nhà nước công nhận là di tích lịch sử văn hóa. Hiện trông coi, hương khói tại ngôi đền là hậu duệ đời thứ 13 của dòng họ Giang - ông Giang Văn Kế. Đền thờ Giang Văn Minh là điểm đến không thể bỏ qua mỗi khi du khách về thăm làng cổ Đường Lâm, đất hai vua.
Xuân Tuyến Quốc huy
Báo công an

0 nhận xét:

Đăng nhận xét